Cổng thông tin điện tử sở y tế tỉnh an giang

Thông tin sức khỏe

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

03:48 29/11/2023

Bệnh (COPD) là một bệnh viêm phổi mãn tính được gây ra luồng khí bị tắc nghẽn từ phổi. Các triệu chứng bao gồm khó thở, ho, tiết chất nhầy (đờm) và thở khò khè. Nguyên nhân gây bệnh là do tiếp xúc lâu dài với các chất khí hoặc hạt vật chất kích thích, thường là từ khói thuốc lá. Những người bị COPD có nguy cơ mắc bệnh tim, ung thư phổi và một loạt các tình trạng khác.

Phòng ngừa bệnh COPD:  Để giúp các bạn hiểu rõ về bệnh COPD thì hôm nay chúng tôi có bài viết giúp hiểu rõ các nguyên nhân của bệnh và cách phòng ngừa bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.

 Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của bệnh: Thuốc lá: Là nguyên nhân chính của bệnh và tử vong do COPD. Người hút thuốc có nguy cơ bị bất thường chức năng phổi nhiều hơn.15% số những người hút thuốc có triệu chứng lâm sàng của COPD và 80 - 90% các bệnh nhân COPD đều có hút thuốc. Hút thuốc lá thụ động: trẻ em trong gia đình có người hút thuốc lá bị các bệnh đường hô hấp trên với tỉ lệ cao hơn trẻ em trong gia đình không có người hút thuốc. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.

Ô nhiễm môi trường: Khói, bụi nghề nghiệp, khói bếp than... là các yếu tố nguy cơ để phát triển bệnh, tuy nhiên, các yếu tố nguy cơ này nhỏ hơn so với thuốc lá.

Nhiễm trùng hô hấp: Nhiễm trùng hô hấp ở trẻ em dưới 8 tuổi gây tổn thương lớp tế bào biểu mô đường hô hấp và các tế bào lông chuyển, làm giảm khả năng chống đỡ của phổi. Nhiễm vi-rút hợp bào hô hấp có khả năng làm tăng tính phản ứng phế quản, tạo cơ hội cho bệnh phát triển.

Yếu tố cơ địa: Tăng tính phản ứng của phế quản là yếu tố nguy cơ làm phát triển bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.

Hội chứng rối loạn vận động nhung mao.

Tuổi: tỉ lệ bệnh gặp cao hơn ở người già.

Chế độ dinh dưỡng lúc còn nhỏ, thiếu các vitamin A, D, E có liên quan tới việc tăng tỉ lệ bệnh.

 Triệu chứng nhận biết: Bệnh nhân có tuổi từ 40 trở lên, có tiền sử hoặc hiện tại có tiếp xúc với yếu tố nguy cơ: hút thuốc lá, thuốc lào, tiếp xúc với khói bụi và hóa chất, khói bếp và khói của nhiên liệu đốt... có các biểu hiện: Ho khạc đờm 3 tháng trong 1 năm và liên tiếp trong 2 năm trở lên. Trong đợt cấp do nhiễm trùng đờm nhiều hơn và thay đổi màu sắc của đờm.

Khó thở: Tiến triển nặng dần theo thời gian và khó thở liên tục. Bệnh nhân “phải gắng sức để thở”, “thở nặng”, “cảm giác thiếu không khí” hoặc “thở hổn hển”. Khó thở tăng lên khi gắng sức, nhiễm trùng đường hô hấp.

Khi có các dấu hiệu nghi ngờ COPD, bệnh nhân cần đến khám tại chuyên khoa Hô hấp, các bác sĩ chuyên khoa thăm khám thực thể, làm một số thăm dò chẩn đoán xác định. Đo chức năng hô hấp là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định và đánh giá mức độ nặng của COPD. X-quang phổi có thể thấy hình ảnh giãn phế nang, loại trừ các bệnh phổi khác như: u phổi, giãn phế quản, lao phổi. Điện tâm đồ, siêu âm tim giúp đánh giá ảnh hưởng tim mạch ở giai đoạn muộn của bệnh. Thở oxy dài hạn tại nhà cần có chỉ định của bác sĩ.

 Điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

Các điều trị chung: Tránh lạnh, ẩm, bụi, khói... cần đeo bảo hộ lao động khi tiếp xúc với môi trường ô nhiễm. Sắp xếp môi trường sống hợp lý, không đun bếp than, củi. Cai nghiện thuốc lá, thuốc lào: tư vấn cai nghiện thuốc, dùng thuốc bổ sung hỗ trợ cai nghiện. Cần ngăn ngừa cả hút thuốc lá chủ động và thụ động. Vệ sinh mũi họng thường xuyên. Tiêm vắc-xin phòng cúm hàng năm vào đầu mùa thu. Tiêm vắc-xin phòng phế cầu.

Dùng thuốc giãn phế quản và corticoid, thuốc chống viêm có tác dụng kéo dài

Các thuốc giãn phế quản sử dụng điều trị COPD: ưu tiên các loại thuốc giãn phế quản dạng phun hít khí dung. Liều lượng và đường dùng của các thuốc này tùy thuộc vào mức độ và giai đoạn bệnh. Corticoid được chỉ định khi bệnh nhân COPD giai đoạn nặng, có nhiều đợt cấp. Dùng corticoid phối hợp với các thuốc giãn phế quản kéo dài.

Kháng sinh: Chỉ nên dùng khi có biểu hiện nhiễm khuẩn. Việc dùng kháng sinh bừa bãi nhanh dẫn đến kháng thuốc ở bệnh nhân COPD do bệnh kéo dài và bệnh nhân phải dùng kháng sinh nhiều đợt. Thuốc loãng đờm: Chỉ dùng trong đợt cấp có ho khạc đờm nhiều, ở giai đoạn COPD ổn định điều trị tại nhà, không nên dùng các thuốc loãng đờm.

Thuốc giảm ho: Ho mặc dù đôi khi gây khó chịu cho bệnh nhân COPD nhưng nó có vai trò bảo vệ. Chỉ dùng thuốc giảm ho khi triệu chứng này ảnh hưởng nhiều tới cuộc sống của bệnh nhân như: tức ngực, mất ngủ...

Điều trị bệnh phối hợp: Bệnh phổi tắc nghẽn có ảnh hưởng toàn thân, người bệnh COPD thường có bệnh phối hợp: đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh lý mạch vành, táo bón, trầm cảm... Bệnh phối hợp làm nặng thêm tình trạng bệnh phổi tắc nghẽn. Điều trị bệnh kèm theo là một bước quan trọng trong kiểm soát bệnh COPD. Người bệnh cần được khám theo dõi hàng tháng tại chuyên khoa hô hấp. Đo chức năng hô hấp đánh giá lại giai đoạn bệnh 3 tháng/lần.

Phòng bệnh: Không hút thuốc lá, thuốc lào, tiếp xúc với các khí độc hại, ô nhiễm môi trường. Điều trị sớm các nhiễm khuẩn đường hô hấp và các bệnh lý kèm theo. Phục hồi chức năng hô hấp: Mục đích chính của phục hồi chức năng hô hấp là để giảm các triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống, tăng cường thể lực và tinh thần trong cuộc sống hàng ngày. Để hoàn thành những mục tiêu này, phục hồi chức năng hô hấp cần lưu tâm đến các vấn đề ngoài hô hấp bao gồm: tập luyện trong hoàn cảnh thiếu tiện nghi, cô lập với xã hội, tình trạng buồn rầu (đặc biệt là trầm cảm) và sụt cân./.

Ds. Trần Văn Chí - TTYT Phú Tân

 

Văn phòng Sở Y tế An Giang